Đến với Huế, mảnh đất được thiên nhiên ban tặng một vẻ đẹp nên thơ như một bức tranh thủy mặc, sơn thủy hữu tình. Ngân vang trong tiếng chuông chùa Thiên mụ là một khoảng không gian rộng mở của dòng Hương giang đang lặng lờ trôi.
Trở lại với lịch sử hình thành và phát triển của Huế, theo các nhà sử học, tính từ năm 1306, khi vua Champa dâng 2 Châu Ô, Châu Rí cho nước Đại Việt dưới triều Trần (1225 – 1440) để cầu hôn công chúa Huyền Trân, đến nay Huế đã có ra đời được 700 năm. 700 năm là một chặng đường dài của những đổi thay, nhưng Huế vẫn giữ được cho mình một nét thơ, một nét nhạc như khúc nam ai nam bình đang dịu dàng cất lên từ bến sông Hương, để biết bao du khách phải nhớ, phải thương.
Con người xứ Huế vốn dĩ thông minh, tài hoa và rất cần cù, sáng tạo trong lao động. Từ rất lâu đời, do nhu cầu của cuộc sống của các vương triều phong kiến nhà Nguyễn (kéo dài 143 năm: 1802 – 1945 ) và do sự phân công lao động trong xã hội, vì vậy, nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng trên vùng đất Huế đã được hình thành, phát triển và tồn tại cho đến tận ngày nay. Trong số đó có những làng nón truyền thống như Phủ Cam, Đốc Sơ, Dạ Lê, Kim Long, Tây Hồ và làng nón Bài Thơ.
Có người hỏi rằng, nghề làm nón Huế đã có từ bao giờ? Có lẽ chưa thể có câu trả lời chính xác nhất. Tuy nhiên, theo những ghi chép còn sót lại của Lê Quí Đôn trong “Phủ biên tạp lục”, khi nhận xét về chiếc nón lá xứ Thuận Hóa ở thế kỷ XVI, XVII đã cho chúng ta biết rằng nghề làm nón lá Huế đã có từ khoảng hơn 300 - 400 năm về trước.
Nón bài thơ xứ Huế cũng giống như nón ở một số địa phương khác trên cả nước, tuy nhiên nét đặc thù mang đậm dấu ấn phong cách Huế chính là dáng nón thanh tao mềm mại, màu trắng sáng xanh mát dịu của lá và những hình hoa văn được tạo nên khéo léo, bố cục cân đối giữa hai lớp lá, chỉ khi soi ra trước ánh sáng mới có thể nhận thấy được vẻ đẹp đầy thi vị này. Và để làm nên những chiếc nón bài thơ này là cả một nghệ thuật, đòi hỏi sự kì công, khéo léo của những nghệ nhân làm nón.
Về mặt hình dáng, chất liệu và công dụng, nón bài thơ xứ Huế cũng giống như nón cùng loại của một số địa phương khác trên cả nước. Tuy nhiên, nét đặc thù mang đậm dấu ấn phong cách Huế chính là dáng nón thanh tao mềm mại, màu trắng sáng xanh mát dịu của lá và những hình hoa văn được tạo rất khéo, bố cục cân đối nằm giữa 2 lớp lá, chỉ khi soi ra trước ánh sáng mới có thể nhận thấy được vẻ đẹp đầy thi vị của nó. Ở Huế, chiếc nón không chỉ để che nắng mưa mà còn là một loại phục trang kết hợp cùng tà áo dài màu tím đặc trưng, càng làm cho vẻ đẹp của người phụ nữ thêm uyển chuyển và mềm mại trên từng bước chân thong thả, dịu dàng.
Thoạt trông, chiếc nón lá Huế có vẻ đơn giản như bao chiếc nón khác. Tuy nhiên, để làm được một chiếc nón vừa đẹp vừa nhẹ, bền là cả một nghệ thuật và công phu của những người thợ. Ở mỗi công đoạn đều có sự chuyên môn hóa cao. Từ khâu khai thác vật liệu, gia công lá nón, thiết kế khung, làm vành, sáng tác hoa văn đến khâu nón. Có rất nhiều du khách khi đến Huế tham quan, lúc về không quên mang theo những chiến nón Huế làm quà cho người thân và bè bạn.
Để làm được một chiếc nón bài thơ, phải trải qua rất nhiều công đoạn. Toàn bộ qui trình này, chủ yếu có 3 nhóm việc chính: Chuẩn bị khung và vành nón, xử lý lá nón, khâu và hoàn thiện nón. Trước hết là khâu tạo khung và vành nón. Đây là công việc đòi hỏi người thợ có nhiều kinh nghiệm, cẩn thận và khéo tay. Chiếc khung nón bao gồm 12 thanh gỗ vát mảnh được ghép lại, khớp nhau ở đỉnh, phía dưới khoảng cách đều nhau. Toàn bộ mặt khung hình khum nhẹ. Tùy thuộc vào thợ làm nón đặt loại khung nào thì người thợ sẽ làm loại khung đó. Nhưng tinh tế hơn cả vẫn là khâu làm vành. Vành nón được làm từ thân cây lồ ô. Bộ vành quyết định chủ yếu dáng vẻ chiếc nón. Có người đã nhận xét: “Nón Huế nhẹ, mềm mỏng, trước hết ở cốt cách của bộ vành. 16 vành như 16 vầng trăng được ve thật nhanh, thật tròn, thật nhẵn, thật điệu, sao cho không gợn chút méo mó ngay cả ở chỗ mắt cây”.
Vùng sơn cước của Thừa Thiên Huế dường như là kho thiên nhiên vô tận để khai thác lá nón. Sau khi thợ sơn tràng đưa lá về, lá được tuyển sơ để chuyển sang sấy. Lá nón sấy đạt yêu cầu phải thỏa các điều kiện là lá chính đều, khô vừa, giữ được sắc xanh nhẹ, chưa hoàn toàn ngả sang màu trắng vàng.
Đây là công việc vất vả và khá quan trọng, quyết định đến chất lượng của chiếc nón được tạo ra. Sau khi sấy xong, người thợ sẽ đem lá về rãi sương (giữ độ ẩm), ủi và lựa lá. Họ rất thạo trong việc chọn lá đực, lá cái, mặt phải, mặt trái, cắt và rọc sống. Hai mươi chiếc lá đực được xây đầu tiên sẽ nằm ở mặt trong. Tiếp đến là hình hoa văn – bài thơ phủ kín diện tích xung quanh chiếc nón. Lá cái được xây ở ngoài cùng. Ở công đoạn này động tác phải nhẹ nhàng khéo léo, chèn kỹ, đẹp và dằn chắc chắn, giữ cho mặt lá phẳng không xê dịch.
Khâu (chằm) nón là công đoạn quyết định đến sự hình thành và vẻ đẹp của cả chiếc nón. Người thợ sẽ khâu từ trên xuống đến vành 15, cứ 1 cm 3 mũi cước trong suốt. Vành cuối cùng khâu cước trắng, 2 mũi kim cách nhau 2 cm.
Đường chằm phải mềm mại, thanh nhẹ, dịu dàng. Bàn tay khéo léo của những nghệ nhân các làng nón đã làm được điều đó bằng tài năng và sự khổ luyện của mình, có khi phải chong đèn thâu đêm, suốt sáng, miệt mài, dường như không biết mỏi là gì. Khâu xong nón, người thợ chỉ còn việc đánh quai, chải dầu. Lớp dầu bóng bằng nhựa thông pha cồn làm cho nón thêm sáng, đẹp và chống thấm nước. Từ đây, chiếc nón bắt đầu cuộc hành trình của mình đến với người tiêu dùng gần - xa.
Vì sao lại gọi là nón bài thơ? Đó chính là những họa tiết được ghép vào giữa chiếc nón để mỗi khi che nghiêng nón lá trên làn nắng nhẹ, những công trình kiến trúc như chùa Thiên mụ, cầu Tràng Tiền, sông Hương cùng những vần thơ chợt hiện ra, khơi gợi bao cảm xúc trong mỗi người khi nhìn ngắm.
Nón bài thơ là một loại nón lá đặc biệt ở xứ Huế, khi soi lên ánh sáng thì thấy hiện lên bài thơ hay hình ảnh hoa văn được tạo nên khéo léo, bố cục cân đối giữa hai lớp lá nón.
Nghề làm nón ở Huế xuất phát từ nhu cầu của đời sống dân gian. Nón vừa là vật dụng khá tiện lợi, phù hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, giá lại rẻ, vì vậy, nón Huế rất được ưa chuộng. Nón Huế xuất hiện ở mọi nơi, trên cánh đồng lúa chín vàng ươm, ở chốn đền đài lăng tẩm vươn màu thời gian. Ai ai cũng có thể đội nón Huế. Từ cụ già đến em bé, hướng dẫn viên và cả những du khách nước ngoài. Ai ai cũng đều yêu nón Huế. Không chỉ vì vẻ đẹp nên thơ của nón mà còn vì tình yêu của du khách dành cho Huế.
Nón bài thơ Huế đi vào thi ca
Người xứ Huế yêu thơ và nhạc lễ
Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ nép trong tay
Thầm lặng bước những khi trời dịu nắng...
Những cô gái Huế duyên dáng, dễ thương, nói năng nhỏ nhẹ "tâm sự nhiều mà ít hé trên môi", mặc áo dài trắng, đội nón bài thơ, bước đi nhẹ nhàng, khoan thai trên đường Lê Lợi dọc sông Hương, trong những trưa nắng hạ và những ngày nắng xuân là một nét đẹp của Cố Đô, đã bao lần làm xao động tâm hồn của nhiều thi nhân mỗi khi có dịp đến thăm Huế:
Áo trắng hỡi, thưở tìm em không thấy
Nắng mênh mang trải mấy nhịp Tràng Tiền
Nón rất Huế, nhưng đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng...
(Thu Bồn)
Hình ảnh thơ mộng này cũng đã đi vào thế giới nghệ thuật của nhiếp ảnh và điện ảnh như một trong những hình tượng đẹp, tiêu biểu cho đất nước, con người Việt Nam qua những bộ phim: "Huế đẹp Huế thơ . . ." - "Thành phố bên bờ sông Hương" - "Thương nhớ sông Hương" - "Huế - Toujours Recomenndé” của UNESCO . . . đã được đông đảo khán giả khắp nơi trên thế giới hâm mộ .
Nhưng chiếc nón lá có tự bao giờ ? Huế có phải là quê hương của chiếc nón bài thơ không ? Điều này đã làm không ít người băn khoăn ?!
Thực ra thì chiếc nón lá Việt Nam đã xuất hiện trong đời sống của nhân dân ta từ thế kỷ XIII và không phải chỉ riêng Huế mới có nón bài thơ .
Vào đời Trần, ở làng Ma Lôi, thuộc lộ Hồng Châu (Hải Hưng và Hải Phòng ngày nay), nhân dân ta đã vào rừng chọn lá cọ non, đem về phơi khô để kết làm nón đội đầu che nắng mưa, gọi là "nón Ma Lôi" . Lúc đầu nón chỉ lưu hành trong dân gian, về sau các vua Trần thấy đẹp, đã cho cải tiến thành một loại nón đẹp hơn để dùng trong hoàng cung, gọi là "nón thượng" .
Ca dao xưa đã xếp hình ảnh cô gái đội chiếc "nón thượng" này vào hàng thứ sáu trong số "mười thương":
Một thương tóc bó đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
. . . . .
Sáu thương "nón thượng quai tua" dịu dàng
Theo nhà bác học Lê Quí Đôn (1726 - 1784) trong "Vân Đài loại ngữ", thì vào thời Lê Mạc (khoảng đầu thế kỷ XVII), trên vùng thượng nguồn sông Đà và sông Thao, có giống lá cây cọ dài bền và đẹp, càng đem phơi nắng càng trắng, người ta đã chọn những chiếc lá thanh, nhỏ để làm nón . Và châu Bố Chính thuộc trấn Nghệ An (bao gồm cả vùng Quảng Bình ngày nay) có thứ lá gõ dùng để lợp mái kiệu, nhân dân sống ở vùng này đã chọn loại lá non đem về phơi khô rồi kết làm nón đội đầu, gọi là "nón gõ" . "Nón gõ" chính là tiền thân của "nón Nghệ" và "nón Ba Đồn" của Quảng Bình ngày nay . Trải qua nhiều đời, tuỳ theo phong thổ và đặc sản của từng vùng, nhân dân ta đã sáng chế ra nhiều loại nón lá khác nhau để đội đầu . Mỗi kiểu dành cho mỗi hạng người trong xã hội .
Trong "Vũ trung tùy bút", Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) đã liệt kê đầy đủ và mô tả khá chi tiết về các kiểu nón lá Việt Nam có mặt đến cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX .
Ở vùng Sơn Tây có nón Ngoan Xác - còn gọi là nón Mềm Giải - và nón Tam Giang dành cho các cụ già . Nón Chóp (có chóp ở trên đầu dùng cho đàn ông) . Con nhà quan và học trò đi thi thì đội nón Phương đầu đại còn gọi là nón Lá . Gia đình quan lại và danh vọng quyền quý thì đội nón Cổ Châu - còn gọi là nón Dâu . Trẻ em đội nón Liên diệp - còn gọi là nón Lá sen nhỏ khuôn . Nón Tu lờ rộng vành dùng cho nhà sư . Ở thôn quê dân nghèo đội nón Trạo lạp - còn gọi là nón Sọ nhỏ . Nón chéo vành tay, nón dấu dùng cho lính tráng:
Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài . . .
(Bài ca lính thú ngày xưa)
Đồng bào Mường, Mán ở vùng cao nguyên Tây Bắc đội nón hình như nón khua, đầu nhọn, làm bằng vỏ măng nứa, khác với nón mọi nơi, gọi là nón đầu nhược, nón Cạp (dùng để đội trong thời gian chịu tang) . Ngoài ra còn có nón Nghệ, nón Móc dùng trong nhân dân vùng đồng bằng Thanh-Nghệ-Tĩnh . . . (S đ d, NXB Trẻ, TP. HCM 1989, tr. 61-62) .
Nghệ An ngày xưa cũng có nón Thượng . Nón Thượng là nón Thúng xứ Nghệ ngày nay hầu như không còn nhưng xưa kia được nữ giới rất ưa chuộng, tuy giá đắt gấp đôi nón thượng, vì được làm rất công phu, tỉ mỉ như được kể trong một bài vè:
"Đội một cái nón Thượng, kẻ những mấy con nghê rồng . . .
Trên phượng ngậm bao kinh, dưới chỉ thùa con bướm . . ."
Làm nón Thượng tuy tốn nhiều công sức kỹ lưỡng thế song vẫn là nghề thanh nhàn . Ở quê hương thi hào Nguyễn Du có nghề nón cổ truyền của xứ Nghệ đã lưu truyền câu ca dao sau đây:
"Em đừng bứt niệt mỏi tay
Về đây làm nón đợi ngày du xuân"
(Theo Địa chí Văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh [NXB Nghệ An, Vinh, 1995] )
Xuất hiện trên đất nước ta từ lâu đời với nhiều chức năng và công dụng khác nhau đối với cuộc sống con người như che nắng mưa, quạt mát khi trời tắt gió, làm rổ khi cần đựng vật gì mua dọc đường, cái "bát khổng lồ" để múc nước uống giữa cánh đồng cháy bỏng giữa trưa hè . . . nên hầu như khắp nơi trên mọi miền đất nước đều có nghề làm nón và mọi hạng người trong xã hội đều đội nón .
Đó là nón Cọ, nón Bạc, nón Mây của đồng bào Tây Bắc, nón Lai Châu của đồng bào Thái, nón Cao Bằng của người Tày, nón Mõm bò (dành cho người kéo xe ở Hà Nội thời Pháp thuộc) . . . Nổi tiếng nhất là nón Chuông (ở Thanh Oai, Hà Tây) và nón Gò Găng Bình Định và nón Bài Thơ xứ Huế .
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí cuối thế kỷ XIX đầu XX ghi rõ: "Nón Cao Bằng sơn đỏ, nón Thanh Hóa nhẹ nhàng, nón Hà Đông thanh lịch, nón Gò Găng Bình Định vừa thanh tú vừa bền, đặc biệt là nón Bài Thơ Huế có dáng mỏng như tờ giấy, nhẹ nhàng như cánh nhạn, đẹp và bền, được nhiều người ưa thích . . ."
Có thể nói, bất cứ nơi đâu trên đất nước này, chiếc nón lá cũng gắn bó với cuộc đời người phụ nữ như bóng với hình:
Chén tình là chén say sưa
Nón tình em đội nắng mưa trên đầu
(Ca dao)
Người phụ nữ Việt Nam không những đã sáng tạo ra chiếc nón bài thơ độc đáo mà còn làm cho nó có sức sống bền bỉ và đẹp hơn lên bằng chính tình yêu cuộc sống và tấm lòng nhân hậu thủy chung của mình .
Đặc biệt, chiếc nón bài thơ Huế vốn sinh ra và lớn lên trên quê hương Thuận Hóa thanh lịch, nơi hàng trăm năm trước đây từng là kinh đô lâu đời của triều Nguyễn và ngày nay đang trở thành một trung tâm văn hóa du lịch của cả nước - di sản văn hóa của nhân loại - nên sức sống của nó ngày càng bền bỉ hơn cùng với những danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử nổi tiếng của Cố Đô .
"Đó là chiếc nón nên thơ thanh lịch . Một món trang sức nhuần nhụy của cô gái Huế, nhẹ nhàng trên đầu, được chằm bằng những vành tre cật vót chải chuốt nhỏ như tăm . Những tấm lá trắng muốt được là phẳng, sắp xếp đều đặn, được khâu kín đáo và tỉ mỉ vào thân nón bằng những sợi cước trong suốt . Khi đội thắt thêm quai nón bằng dải lụa mỏng, khi thì màu tím ấp ủ, khi thì màu xanh ánh trăng hay màu biếc của liễu non, khi lại màu vàng mỡ gà, khi lại màu hồng ráng chiều . Cũng có người thích quai nón bằng dải lụa mỏng trắng bạch, hay dải gấm, dải nhung đen tuyền làm nổi bật làn da người đội nón" (Thanh Tịnh - Trần Việt Ngữ - Dân ca Bình Trị Thiên, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1967, tr. 19, 20) .
Để chiếc nón nên thơ, thanh lịch, được mọi người ưa thích này, những nghệ nhân chằm nón đã ngày đêm lao động rất kiên nhẫn, công phu:
Bàn tay xây lá, tay xuyên chỉ
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên .
Để làm nên những chiếc nón:
Bài thơ nho nhỏ in màu trắng
Dọi xuống hồn ai những khoảng xanh
(Nguyễn Khoa Điềm)
Ngoài những động tác tỉ mỉ mô tả ở trên, việc lồng những hình trang trí bài thơ vào giữa hai lớp lá nón trước khi chằm cũng là một nét lao động nghệ thuật độc đáo. Những hình trang trí này được cắt trên những giấy màu tím phẩm, gồm các dạng bản:
1. Hình ảnh cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp nghiêng mình bên dòng sông Hương thơ mộng, kèm theo câu ca dao xưa, hay mấy câu thơ hiện đại:
Tràng Tiền biết mấy là yêu
Tuổi thơ áo trắng sớm chiều bướm bay
Đó là hình ảnh những cô gái dắt tay nhau đi trong gió chiều với hai tà áo dài theo gió lượn bay trong thơ Tố Hữu .
2. Hình tháp chùa Linh Mụ vươn lên cao giữa bầu trời Huế kèm theo mấy câu ca dao mang niềm tâm sự day dứt của Huế một thời:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương
Thuyền về xuôi mái sông Hương
Có nghe tâm sự đôi đường đắng cay . . .
3. Một danh lam thắng cảnh nào đó của Huế kèm theo mấy câu ca dao mang theo tình sâu và nghĩa nặng của những người đang tha thiết yêu Huế hôm nay:
Anh đã từng vô Nam ra Bắc
Đi mô cũng nhớ Huế quê mình
Nhớ sông Hương nước biếc
Nhớ non Bình trăng trong . . .
Sau này người ta còn dùng nhiều câu thơ, câu ca dao khác phản ảnh đầy đủ cảnh sắc và hương vị Huế để lồng vào chiếc nón . Có khi dùng hình hoa lá, chim . . . rất đa dạng, nhưng vẫn gọi là Nón Bài Thơ . . .
Chiếc nón Bài Thơ Huế cùng với nón Gò Găng Bình Định được trao giải đặc biệt tại Hội chợ Huế mùa xuân năm Bính Tý (tháng 3/1936) .
Từ đó, nón Bài Thơ Huế đã trở thành một món quà lưu niệm hấp dẫn, lay động thiết tha tình cảm của biết bao du khách mỗi khi có dịp đến thăm Huế, thăm đất nước Việt Nam .
Ra đi mà chẳng đành lòng
Nón che tay ngoắt, động lòng quay lui.
(Ca dao)
Bà con Việt kiều về thăm quê sau bao năm xa cách, du khách quốc tế đến tham quan Huế cũng đều mang về những chiếc nón bài thơ kỷ niệm và làm quà:
Chiếc nón miền nắng gắt
Tặng người xứ tuyết xa
Để khi lòng nhớ nắng
Trong nón hiện hình hoa
(Chế Lan Viên, tặng nữ thi sĩ Liên Xô Cadacôva)
Đối với những người đã sinh ra, lớn lên và đã từng sống ở Huế, nón bài thơ mãi mãi vẫn là những kỷ niệm đẹp không thể nào quên trong cuộc đời:
Nhìn chiếc nón bài thơ
Ngậm ngùi nhớ chuyện xưa
Mẹ ơi ! Con ước mãi
Sống lại những ngày thơ !
(Nguyễn Thị Thiếu Anh)
Ngày nay nón Bài Thơ Huế cùng với nón lá Việt Nam đã vượt khỏi vùng trời quê hương đầy giông bão và nắng mưa của mình, để đến làm bạn với chị em phụ nữ ở nhiều nước trên thế giới . . .
Tổng hợp
Ảnh sưu tầm từ internet
Chia sẻ bài này
Nón bài thơ xứ Huế đã có từ bao giờ?
4/
5
Oleh
Unknown